Ngoại ngữ giao tiếp và chuyên ngành Dược 
Cập nhật lần cuối 10:21:47 / 01-06-2019

Phương pháp đọc hiểu (Reading Comprehensive Method) Sử dụng trong những năm 1930 thế kỷ XX khi đó hầu hết các cơ sở đào tạo tiếng nước ngoài không tuyển được giáo viên đạt yêu cầu. Theo phương pháp đọc hiểu, giáo viên không cần nắm được đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ (đọc, nghe, nói và viết) mà chỉ cần có vốn từ vựng, biết được cấu trúc ngữ pháp. Ở phương pháp này kĩ năng đọc dịch là trọng tâm. Từ vựng là vấn đề cơ bản. Cấu trúc ngữ pháp chỉ đề cập để trợ giúp quá trình đọc hiểu.

Phương pháp dịch ngữ pháp (Grammar Translation Method) Phương pháp này thường sử dụng trong thời kì đầu (thế kỉ XVII-IXX), áp dụng rộng rãi ở châu Âu khi dạy các ngôn ngữ La Tinh và Hi Lạp, sau này là các thứ tiếng Đức, Pháp, Anh, Nga. Đặc biệt trong dạy tiếng La Tinh ở hệ thống các trường đào tạo của giáo hội công giáo.

Mục đích giảng dạy của phương pháp này hướng người học đọc và dịch được các tác phẩm nguyên tác (kinh thánh, tác phẩm văn học, đối với sinh viên dược là đọc dịch tài liệu chuyên môn: dược điển, bài báo khoa học; sách giáo khoa chuyên ngành: hóa học, bào chế, hóa dược). Các nhà sư phạm nhìn nhận ngoại ngữ như một bộ môn giáo dục toàn diện đóng vai trò chủ đạo trong phát triển trí tuệ và tư duy lô gic cho sinh viên.

Phương pháp này chú trọng vào văn bản viết. Các kỹ năng nghe và nói bị bỏ qua. Hình thức giao tiếp bằng lời nói thường chỉ dùng với để hỗ trợ giảng dạy và không yêu cầu phải sử dụng ngôn ngữ đang dạy và học.

Về ngôn ngữ: phương pháp này tập trung vào việc phân tích văn bản. Phân tích cấu trúc câu và cấu trúc ngữ pháp, phân tích từ vựng (phân loại, cấu trúc, hình thái, ngữ nghĩa). Qua văn bản được học, sinh viên dược có thể học thêm từ vựng và sinh viên luôn được khuyến khích sử dụng từ điển song ngữ và kỹ năng tra từ điển nhanh, biết càng nhiều từ mới càng tốt, khi học dịch nghĩa từ mới sang tiếng Việt (nhưng không gắn với cách sử dụng cũng như cấu trúc liên quan), các dạng bài tập dịch xuôi, một vài câu dịch ngược. Thi cử cũng lấy dịch làm trọng tâm.

Ngữ pháp được học theo phương pháp diễn dịch và mang tính hệ thống, áp dụng rộng rãi các qui tắc ngữ pháp, đồng thời so sánh đối chiếu với tiếng Việt. Tiếng Việt được sử dụng chủ yếu trong quá trình giảng dạy. Có thể nói học ngoại ngữ bằng phương pháp này, sinh viên dược được nghe giảng giải nhiều về ngoại ngữ, biết nhiều cấu trúc ngữ pháp nhưng khi cần áp dụng để giao tiếp trong các tình huống đơn giản sinh viên dược rất lúng túng hoặc không sử dụng được. Sinh viên đã trở thành các pho sách ngữ pháp về ngoại ngữ được học có lẽ kiến thức về ngữ pháp trong ngoại ngữ được học của họ còn hơn rất nhiều người bản ngữ bình thường.

Ưu điểm cơ bản của phương pháp này là sinh viên được học các tài liệu chuyên môn nguyên tác, ngữ pháp được học qua tình huống cá biệt, vốn từ bị động (passive word) lớn có thể giúp sinh viên dược dịch các tài liệu chuyên môn dễ dàng, tiếng Việt là ngôn ngữ giảng dạy và là đối tượng so sánh đối chiếu của sinh viên.

Tuy nhiên, do học ngoại ngữ, chủ yếu qua nghiên cứu các cấu trúc ngữ pháp và chuyên tâm vào dịch nên hầu như sinh viên không dùng được ngoại ngữ để giao tiếp.

Hiệu quả và hạn chế các phương pháp giảng dạy ngoại ngữ áp dụng đối với sinh viên dược trong giai đoạn này Do yêu cầu nhắm tới là dịch được tài liệu chuyên môn, không yêu cầu giao tiếp được bằng ngôn ngữ đã học. Sinh viên dược ở giai đoạn này có vốn từ bị động khá lớn, vốn từ này thường chỉ sử dụng khi đọc, nhưng vốn từ chủ động (active word) rất nghèo nàn, những từ này người dùng sử dụng hiệu quả trong mọi kỹ năng đặc biệt trong nghe và nói.

Những sinh viên dược có học lực từ trung bình trở lên cho đến khá có thể đọc tài liệu chuyên môn (nguyên gốc tiếng Nga) để tham khảo cho các môn học từ năm thứ 3. Nhưng rất hạn chế trong giao tiếp đặc biệt không thể giao tiếp trực tiếp hoặc tham gia tranh luận các chủ để đơn giản chưa nói đến các chủ để chuyên môn.

Chỉ một số tình huống giao tiếp rất đơn giản, cố định và cũng chỉ các sinh viên khá trở lên mới có thể sử dụng ngôn ngữ một cách hạn chế vào các tình huống này, như chào hỏi, làm quen, hỏi tên, hỏi về gia đình, hỏi về sức khỏe theo các mẫu câu cố định.

Nhưng thực tế giao tiếp dù đơn giản hay rất đơn giản cũng không thể cố định do đó có thể nói sinh viên Việt Nam nói chung (không nói đến các trường chuyên ngữ) và sinh viên dược nói riêng không thể giao tiếp thành công trong tình huống không dự đoán trước.

Nhận sự Tư vấn Hỗ trợ Cấp Chứng chỉ hành nghề Y Dược tại Rolatex.net và Tuyendungyduoc.vn
Liên hệ: 096 229 3232 hoặc 0866 5959 32
Email: hotro@tuyendungyduoc.vn